Lửng lợn - Arctonyx collaris
Thông tin chi tiết:
Hình Thái: Lửng lợn có bộ lông màu nâu dài trung bình, cơ thể chắc, họng màu trắng, hai sọc màu đen trên một khuôn mặt trắng kéo dài và một cái mõm màu hồng như mõm lợn. Chiều dài đầu và thân là 55–70 cm (22–28 in), đuôi dài 12–17 cm (4,7–6,7 in) và cân nặng 7–14 kg (15–31 lb).[5] Đây là loài duy nhất của chi Arctonyx. Lửng lợn phân bố ở các khu rừng mưa nhiệt đới Đông Nam Á. Hình dáng của lửng lợn tương tự như lửng Á-Âu, nhưng nó nhỏ hơn, với móng vuốt lớn trên bàn chân trước. Đuôi của lửng lợn có những sợi lông dài màu trắng, và bàn chân trước của nó có móng vuốt màu trắng. Lửng lợn là loài ăn tạp, thức ăn của nó gồm trái cây, củ và động vật nhỏ. Đây là loài động vật ăn đêm.
Sinh thái: Có khả năng đều thích nghi với nhiều môi trường khác nhau từ rừng sâu trũng đến rừng sâu có độ cao 3.500m so với mặt biển. Đôi khi kiếm ăn ở vùng đất cánh tác ven rừng. Thức ăn gồm nhiều loại măng, củ, giun, côn trùng, con vật kể cả cuốn chiếu. Dùng mũi đảy hoặc bới đất giống lợn rừng. Có thể dùng móng chân trước bới tìm côn trùng, củ. Kiếm ăn đêm, một mình. Ban ngày ngủ trong hang đất tự đào. Màu giao phối có thể ghép đôi. Thị giác không tốt, nhưng khứ giác rất tốt. Thân có mùa hôi rất nặng. Mỗi lần đẻ 2 - 3 con. ở trại nuôi dưỡng có thể sống đến 14 năm.
Trạng thái bảo tồn: Do tình trạng săn bắt trái phép nên quần thể của chúng ngoài môi trường tự nhiên đang bị suy giảm nghiêm trọng
Sách đỏ VN:
IUCN: VU
ND84: IIB
Tại cúc phương:
Kinh độ/ VN2000 | Vĩ độ/ VN2000 |
---|
Phân bố trong nước: Loài này được tìm thấy ở nhiều khu vực tại Việt Nam. Các ghi nhận gần đây cho thấy sự hiện diện của chúng ở Tây Nguyên (Đắk Nông, Đắk Lắk, Kon Tum), Bình Phước (Vườn quốc gia Bù Gia Mập), và Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia-Pà Cò. Ngoài ra, có những ghi nhận ở miền Bắc Việt Nam như Phú Thọ, Thanh Hóa (Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông), và Hòa Bình, cùng với các vườn quốc gia Cúc Phương và Pù Mát.
Phân bố ngoài nước: Bangladesh, Cam-Phu-Chia, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Thái Lan
Giá trị: Nghiên cứu khoa học, sinh thái, thẩm mỹ. Lửng lợn có giá trị về da, lông và là nguồn thực phẩm ở một số nơi. Trong y học dân gian, xương (suyền cốt) của lửng lợn được cho là có tác dụng chữa tê thấp, đau nhức xương khớp. Mỡ (suyền cao) dùng để chữa bỏng, nứt nẻ gót chân và chốc lở. Mật của chúng cũng được sử dụng với công dụng tương tự như mật gấu. Là loài ăn tạp, lửng lợn tiêu thụ đa dạng các loại thức ăn như trái cây, củ, giun, côn trùng và động vật nhỏ (kể cả cuốn chiếu). Hoạt động đào bới của chúng góp phần làm tơi xốp đất và luân chuyển chất dinh dưỡng, từ đó tăng cường sức khỏe của hệ sinh thái và thúc đẩy sự phát triển của thảm thực vật trong môi trường sống của chúng.
Ảnh | Bộ mẫu | Số hiệu | Ngày lấy | Người lấy | Độ cao | Ghi chú |
---|
Nguồn: https://www.iucnredlist.org, http://vnredlist.vast.vn, https://www.gbif.org