Khỉ mặt đỏ - Macaca arctoides
Thông tin chi tiết:
Hình Thái: Màu lông thường là màu nâu sẫm, nhưng cũng có biến đổi từ đen sang đỏ. Phần dưới của bụng bao giờ cũng nhạt hơn phía trên. Lưng màu nâu đỏ tới nâu sẫm. Mặt phần lớn có màu đỏ. Lông trên đỉnh đầu thường toả ra các phía xung quanh. Lông ở hai bên má toả ra phía sau. Khỉ mặt đỏ có đuôi to, ngắn, không quá 1/3 dài bàn chân sau. Dương vật của con đực trưởng thành dài khác thường. Điểm nổi bật là chai mông to, không có lông.
Sinh thái: Thời gian mang thai 178 ngày (Ross, 1992), khoảng cách giữa các kỳ sinh: 19 tháng. Thời gian sống khoảng 30 năm ( Ross, 1991). Thức ăn chủ yếu là quả, hạt, lá non, nõn và động vật kể cả côn trùng, chim và trứng (Richard, 1989). Chúng hoạt động vào ban ngày. Cuộc sống leo trèo và cả đi trên mặt đất. Khỉ mặt đỏ thường hay đi trên mặt đất trong rừng và dọc theo các bờ sông và suối (Richard, 1989), chưa thấy chúng bơi. Trong lúc đi ăn thường phát ra tiếng kêu để gọi nhau hoặc khi thấy nguy hiểm. Trong đàn có con đực dẫn đầu để bảo vệ đàn. Cấu trúc đàn là nhiều đực, nhiều cái, kích thước đàn từ 5-40 cá thể (Wolfheim, 1983). Trong một ngày đàn có thể di chuyển 400- 3000m (Betrand, 1969). Khỉ mặt đỏ thường sống trong các khu rừng thấp, gió mùa, rừng khô và các khu rừng rậm trên núi cao tới 2000m so với mực nước biển. Tuy vậy vẫn quan sát thấy chúng ở những khu dân cư, đền và miếu
Trạng thái bảo tồn: Hiện trạng tiểu quần thể tại một số khu vực phía bắc có sự suy giảm >50%, một số tiểu quần thể ở miền trung và nam có sự suy giảm >30%. Trong các hoạt động cứu hộ chủ yếu ghi nhận các cá thể già, ít gặp các cá thể non. Nhiều khu vực ghi nhận các cá thể sống đơn độc. Tại Khu bảo tồn Thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai, 1 đàn Khỉ mặt đỏ với 10 cá thể được ghi nhận (Nguyễn Hoàng Hảo và nnk, 2012); tại KBTTN Xuân Liên (Thanh Hóa) thống kê được 36 lần gặp các đàn Khỉ mặt đỏ trong 5 năm (2010-2014), mỗi đàn thường từ 10-20 cá thể, một số đàn có trên 20-30 cá thể, trung bình 16,2 cá thể/đàn, tần suất bắt gặp là 0,0833 đàn/km (Nguyễn Xuân Nghĩa và nnk, 2018); ghi nhận 1 đàn với 4 cá thể tại KBTTN Đakrông và 1 đàn với 7 cá thể tại KBTTN Bắc Hướng Hóa (Quảng Trị) (Nguyễn Văn Minh và nnk, 2018); 1 đàn với 10 cá thể tại KBT Sao La (TT. Huế) (Nguyễn Văn Minh, 2018); tại VQG Vũ Quang, 20 đàn Khỉ mặt đỏ với 128 - 150 cá thể được ghi nhận và ước lượng khoảng 128 - 150 cá thể (Nguyễn Hải Hà và nnk, 2019); tại Khu BTTN Pù Hu, 5 đàn Khỉ mặt đỏ với 29 cá thể được ghi nhận và ước tính khoảng 29-35 cá thể (Nguyễn Hải Hà và nnk, 2020). Khỉ mặt đỏ đã bị suy giảm số lượng đáng kể trong những năm qua và vẫn đang tiếp tục giảm trong tương lai do bị đe dọa từ nhiều hoạt động không bền vững (Aldrich and Neale, 2021). Sự suy giảm trong tương lai được dự đoán sẽ nhanh hơn do mất môi trường sống và săn bắt.
Sách đỏ VN: VU
IUCN: VU
ND84: IIB
Tại cúc phương:
Kinh độ/ VN2000 | Vĩ độ/ VN2000 |
---|
Phân bố trong nước: Lai Châu (Phìn Hồ), Lào Cai (Văn Bàn, Hoàng Liên), Sơn La (Côpia, Sốp Cộp, Mường Do, Phù Yên, Xuân Nha, Mộc Châu, Sông Mã), Phú Thọ (Xuân Sơn), Hà Giang (Đồng Văn, Tây Côn Lĩnh, Du Già, Khau Ca), Yên Bái (Mù Cang Chải), Tuyên Quang (Na Hang), Cao Bằng (Trùng Khánh), Bắc Kạn (Ba Bể, Kim Hỷ, Nam Xuân Lạc), Lạng Sơn (Hữu Liên), Thái Nguyên (Thần Sa, Kỳ Thượng), Bắc Giang, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Hang Kia-Pà Cò), Hà Nội (Hương Sơn), Thanh Hoá ( Pù Hu, Xuân Liên, Pù Luông), Nghệ An (Pù Hoạt, Pù Huống), Hà Tĩnh (Vũ Quang), Quảng Bình (Quảng Ninh, Lệ Thủy, Phong Nha-Kẻ Bàng), Quảng Trị (Bắc Hướng Hoá, Đắk Rông), Thừa Thiên Huế (Bạch Mã, KBT Sao La), Quảng Nam (Sông Thanh), Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận (Ta Kou), Kom Tum (Chư Mom Ray, Kon Plông), Gia Lai (Kon Cha Răng, Kon Ka Kinh), Đắk Lắk (Yôk Đôn, Ea Sô, Chư Yang Sin), Đắc Nông (Tà Đùng), Lâm Đồng (Bi Đoúp-Núi Bà), Đồng Nai (-VH Đồng Nai, Cát Tiên), Bà Rịa-Vũng Tàu ( Bình Châu-Phước Bửu), Kiên Giang ( Phú Quốc) (Đặng Huy Huỳnh và cs. 2008, Đặng Ngọc Cần và cs. 2008, Aldrich 2021).
Phân bố ngoài nước: Ấn Độ, Nam và Đông nam Á
Giá trị: 1. Giá trị sinh thái - Phát tán hạt giống: Khỉ mặt đỏ đóng vai trò quan trọng trong phát tán hạt giống, đặc biệt là các loài cây rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Thói quen di chuyển xa và chế độ ăn đa dạng giúp chúng hỗ trợ tái tạo rừng và duy trì đa dạng thực vật. - Chuỗi thức ăn: Là con mồi của các loài săn mồi lớn như báo, hổ, và rắn lớn, khỉ mặt đỏ góp phần vào sự cân bằng của hệ sinh thái rừng. - Chế độ ăn tạp cũng giúp kiểm soát quần thể côn trùng và động vật nhỏ. - Tác động tiêu cực: Ở một số khu vực gần con người, chúng có thể phá hoại mùa màng, gây xung đột và ảnh hưởng đến nông nghiệp. 2. Giá trị đối với con người: - Nghiên cứu y sinh: khỉ mặt đỏ được sử dụng trong nghiên cứu y sinh nhờ sự tương đồng di truyền và sinh lý với con người. Chúng là đối tượng nghiên cứu trong các lĩnh vực như thần kinh học, bệnh truyền nhiễm, và sinh học sinh sản. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng ít phổ biến hơn so với khỉ vàng do số lượng hạn chế và trạng thái bảo tồn nguy cấp. - Y học cổ truyền: Ở một số quốc gia, bao gồm Việt Nam và Trung Quốc, các bộ phận của khỉ mặt đỏ (như xương, thịt) được sử dụng trong y học cổ truyền, dù việc này gây tranh cãi và làm gia tăng áp lực lên quần thể. - Văn hóa và du lịch: Ở một số khu vực, khỉ mặt đỏ là điểm thu hút du lịch sinh thái, đặc biệt ở các khu bảo tồn hoặc vườn quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng bị xem là loài gây hại ở các khu vực nông nghiệp do phá hoại mùa màng.
Ảnh | Bộ mẫu | Số hiệu | Ngày lấy | Người lấy | Độ cao | Ghi chú |
---|
Nguồn: VnCreature, https://www.iucnredlist.org, http://vnredlist.vast.vn, https://www.inaturalist.org