Cá măng đậm - Elopichthys bambusa

Thông tin chi tiết:

Hình Thái: Cá cỡ lớn có thể dài tới trên 100m. Thân thon dày, cán đuôi dẹp bên. Đầu lớn. Mõm nhọn dài, cứng như chiếc mỏ. Miệng lớn ở phía trước, rạch kéo dài đến quá mắt. Hàm dưới có đột nhọn nhỏ để khớp với lỗ khuyết của hàm trên. Mắt bé ở nửa trước của đầu. Không có râu. Rãnh sau môi đứt quãng ở giữa. Màng mang nối liền với eo mang. Vây lưng có khởi điểm sau khởi điểm vây bụng, gần cán đuôi hơn mút mõm. Các vây nhỏ ngắn, không chạm vào vây sau. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Hậu môn sát gốc vây hậu môn. Vảy nhỏ và nhiều. Đường bên hoàn toàn, hơi võng thấp, phần sau ở giữa cán đuôi. Cá có màu xám, lưng sẫm hơn bụng. Vây lưng và vây đuôi xám đen. Các vây khác vàng nhạt.

Sinh thái: Cá sống ở tầng giữa và tầng trên. Tính hung hãn thường rượt bắt các loài cá khác để ăn. Cá măng là loài cá dữ thường sống đơn độc hoặc các đàn nhỏ. Thức ăn chủ yếu là các loại cá nhỏ như Cá mương, Cá thiểu, Cá ngão, Cá chát, Cá sỉnh, Cá lành canh... Mức độ ăn hại cá con của Cá măng rất lớn. Một con Cá măng nặng 10kg có thể ăn được cá trôi nặng 1,5kg. Cá bột của Cá măng nuôi chung với cá bột của các loại cá nuôi khác (mè, trôi, trắm...) có thể lớn trội hẳn lên và ăn hại rất nhiều cá bột loài khác. Cá măng có kích thước lớn, cỡ tối đa tới 50 - 60kg. Cùng nuôi trong một vực nước cá măng có thể ăn các loài cá khác gần bằng nó và lớn rất nhanh. Cá măng ở sông Hồng (1963) 1 tuổi dài 32,5cm, 2 tuổi dài 53,5cm, 3 tuổi dài 97,5cm và 4 tuổi là 135cm. Cá khai thác thường có khối lượng 1-5kg. Cá thành thục lúc 4-5 tuổi, sức sinh sản lớn, cá cái dài 97,5cm, nặng 6800g chứa 330880 trứng. Mùa sinh sản của cá từ tháng 4 - 7. Cá đẻ trứng trôi nổi. Các bãi đẻ ở vùng trung lưu các sông lớn.

Trạng thái bảo tồn: Sản lượng Cá măng trong các sông, hồ ở các tỉnh phía Bắc giảm sút nghiêm trọng do khai thác quá mức và do xây dựng các đập chắn ngang sông, vùng sinh sống bị thu hẹp trên 20% và vùng phân bố bị chia cắt. Qua khảo sát 5 điểm ở các tỉnh vùng Đông Bắc tháng 4/2001 chỉ thu được 1 mẫu Cá măng ở thị xã Lạng Sơn nặng hơn 2 kg còn các vùng khác hầu như không thấy. Cá măng có kích thước lớn, bị đánh bắt quá mức, khả năng khôi phục quần đàn hạn chế. Mặt khác, Cá Măng là loài cá dữ điển hình, sản lượng giảm sút làm mất cân bằng sinh thái các vùng nước tự nhiên, tạo điều kiện cho cá tạp, cá có kích thước nhỏ và kém giá trị kinh tế phát triển.

Sách đỏ VN: VU

IUCN:

ND84:

Tại cúc phương:

Kinh độ/ VN2000 Vĩ độ/ VN2000
Thêm mới tại đây

Phân bố trong nước: Trong nước: Các hệ thống sông lớn ở trung du, miền núi và đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ xuống tới sông Lam (Nghệ An) (Nguyễn Thái Tự, 1983).

Phân bố ngoài nước: Thế giới: Từ sông Amua (Nga) qua Trung Quốc tới Bắc Việt Nam.

Giá trị: Là loài cá kinh tế nước ngọt, có kích thước rất lớn. Sản lượng trong tự nhiên trước đây khá cao. Mùa khai thác thường tập trung vào tháng 2 - 4 và 9 - 11. Cá măng không chỉ cung cấp cá thịt mà còn ăn nhiều cá nhỏ, cá tạp, đảm bảo cân băng hệ sinh thái ở sông và hồ.

Ảnh Bộ mẫu Số hiệu Ngày lấy Người lấy Độ cao Ghi chú
Thêm mới tại đây

Nguồn: VnCreature

0338.141.214 & 02293.848.006
vqgcucphuong@hn.vnn.vn
cc