Cheo cheo - Tragulus javanicus
Thông tin chi tiết:
Hình Thái: Loài thú móng guốc nhỏ nhất trong họ Cheo cheo Tragulidae, thân dài khoảng 0,4 - 0,5m; trọng lượng trung bình 1300 - 2300g. Dạng ngoài hơi giống hoẵng. Đực, cái đều không có sừng, không có tuyến trước ổ mắt, răng nanh mọc dài ngoài mép (đực dài hơn), thiếu răng cửa trên. Chi rất mảnh, ngón 3, 4 phát triển. Bộ lông ngắn, mịn, đồng màu nâu đỏ ở mặt trên và mặt bên, thẫm ở dọc giữa lưng, nhạt dần ở hai bên, dọc gáy có vệt lông đen. Dưới cằm và họng có 2 vệt trắng chung gốc, 1 vệt dọc giữa tự do; đuôi lông xù, mặt trên màu giống lưng, mặt dưới trắng nhạt.
Sinh thái: Cheo ăn lá, chồi, thân non, hoa, quả, hạt, củ, cỏ, nấm. Thức ăn ưa thích là quả. Cheo cũng ăn côn trùng (sâu, nhộng), xác động vật. Cheo ghép đôi vào tháng 9 - 12 hàng năm, đẻ từ tháng 1 - 9, đẻ nhiều vào tháng 5-7. Theo A. Asdell (1946) và Grasse, (1955) Cheo cheo mang thai 120 ngày, năm đẻ 1 lứa/1 con.Cheo ưa sống đơn độc, chỉ ghép đôi thời kỳ động dục, hay ở rừng thưa, cũng có ở rừng già, ưa nơi bằng phẳng, khô ráo, có nhiều bụi rậm và có tầng cỏ quyết phát triển, trú ngụ trong các gốc cây to, bụi rậm. Hoạt động chủ yếu về đêm, từ 19h - 23h, mạnh nhất 20h - 22h. Nơi vắng cũng có thể gặp Cheo vào buổi sáng (5h - 7h).
Trạng thái bảo tồn: Ở các tỉnh phía Bắc Cheo gần như tuyệt chủng, ở các tỉnh phía Nam, diện tích nơi cư trú đang giảm mạnh, hiện còn ước khoảng 2000km 2, chủ yếu ở Tây Nguyên. Số lượng cá thể ước tính còn dưới 10000 con, mỗi năm có thể giảm sút 3 - 4%. Sách đỏ Việt Nam năm 2000 xếp bậc V. Nhà nước chưa có văn bản bảo vệ. Đề nghị: Nhà nước sớm có văn bản cấm săn bắt, buôn bán loài này.
Sách đỏ VN: VU
IUCN: DD
ND84:
Tại cúc phương:
Kinh độ/ VN2000 | Vĩ độ/ VN2000 |
---|
Phân bố trong nước: Trong nước: Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Gia Lai, Kontum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh.
Phân bố ngoài nước: Thế giới: Ấn Độ, Nam Mianma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia, Malaixia, Inđônêxia (Sumatra, Java, Borneo)
Giá trị: Cheocheo là loài thú hiếm, dễ nuôi làm cảnh, nuôi ở các vườn thú, về khoa học, Cheo là loài thú Móng guốc cổ nhất, chỉ còn tồn tại ở rừng nhiệt đới Đông nam châu Á. Cheo cheo đóng vai trò quan trọng trong phát tán hạt, vì chúng ăn trái cây rơi và thải hạt qua phân, giúp tái tạo rừng. Là loài ăn lá, chúng kiểm soát thảm thực vật thấp, duy trì cấu trúc rừng.animaldiversity.org Là con mồi của các loài săn mồi như rắn, chim săn mồi, và mèo rừng, chúng góp phần vào chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái rừng. T. javanicus là đối tượng nghiên cứu quan trọng trong tiến hóa học, vì họ Cheo cheo (Tragulidae) là nhóm thú guốc chẵn nguyên thủy nhất còn tồn tại. Các nghiên cứu về dạ dày nhai lại và hành vi lãnh thổ cung cấp dữ liệu về sự thích nghi của loài.[http://animaldiversity.org] Đặc điểm hồng cầu nhỏ nhất trong lớp Thú (Mammalia) và các hố trên hồng cầu của T. javanicus là chủ đề nghiên cứu độc đáo trong y học và sinh học tế bào.[http://pmc.ncbi.nlm.nih.gov]
Ảnh | Bộ mẫu | Số hiệu | Ngày lấy | Người lấy | Độ cao | Ghi chú |
---|
Nguồn: VnCreature, https://www.iucnredlist.org, http://vnredlist.vast.vn, https://animaldiversity.org, ones, M.L., et al. (2009). PanTHERIA: A species-level database of life history, ecology, and geography of extant and recently extinct mammals.