Cầy vòi mốc (Cầy cun, Cầy hoa quả) - Paguma larvata
Thông tin chi tiết:
Hình Thái: Cầy vòi mốc có kích thước lớn, trọng lượng 6 - 9 kg, dài thân 650 - 75mm, dài đuôi 535 - 660mm. Lông trên thân. Nửa đùi trên, nửa đuôi trong màu vàng xám. Bụng vàng xám. Nửa đùi dưới phần đuôi ngoài đen. Có một sọc trắng bắt đầu từ mũi đi qua giữa đầu và đến gáy, má màu trắng nhạt. Có đốm trắng ở góc tai và dưới mi mắt. Con đực có tuyến xạ giữa hậu môn và bộ phận sinh dục ngoài.
Sinh thái: Đây là loài sống chủ yếu ở rừng, đặc biệt là rừng gỗ có nhiều cây và dây leo có nhiều quả ăn được. Làm tổ trong gốc cây. Sống đơn, hoạt động kiếm ăn đêm (từ chập tối đến nửa đêm). Leo trèo giỏi, có thể nhảy từ cành này sang cành khác ở cự ly 2m hoặc nhảy từ trên cao 6 - 7m xuống đất chính xác. Tính bạo dạn, ít phát ra tiếng động khi kiếm ăn. Cầy vòi mốc ăn chủ yếu là quả cây rừng trong họ Dâu tằm Moraceae, Bồ hòn Sapindaceae, Trám Burceraceae, Thầu dầu Euphorbiaceae, Sến Sapotaceae. Vào các tháng hiếm quả cây rừng, Vòi mốc còn ăn cả côn trùng, cánh cứng, nhái, chuột (Phạm Nhật, 1982). Cầy vòi mốc động dục vào tháng 3 đến tháng 4, mang thai 1,5 đến 2 tháng, đẻ vào tháng 5 - 6. Mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa đẻ 2 - 4 con. Cầy mẹ làm tổ đẻ cẩn thận trong các hốc cây. Con đẻ ra yếu, chưa mở mắt.
Trạng thái bảo tồn: Số lượng hiện nay không còn nhiều, việc khai thác rừng thiếu kiểm soát ở nước ta đang bị suy thoái, dẫn đến mất nơi sống của chúng. Cần bảo vệ và không cho phép săn bắn loài này. Cần sớm đưa loài động vật này vào sách đỏ.
Sách đỏ VN: VU
IUCN: LC
ND84: IIB
Tại cúc phương:
Kinh độ/ VN2000 | Vĩ độ/ VN2000 |
---|
Phân bố trong nước: Lai Châu, Lào Cai (Hoàng Liên, Văn Bàn), Phú Thọ (Xuân Sơn), Hoà Bình (Hang Kia-Pà Cò), Hà Giang (Tây Côn Lĩnh), Cao Bằng (Phia Oắc, Trà Lĩnh), Tuyên Quang (Na Hang), Bắc Kạn (Ba Bể), Lạng Sơn (Hữu Liên, Mẫu Sơn), Thái Nguyên (Thần Sa), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Bắc Giang, Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hoá (Xuân Liên), Nghệ An (Pù Mát), Hà Tĩnh (Hương Sơn, Kẻ Gỗ), Quảng Bình (Phong Nha-Kẻ Bàng), Quảng Trị (Bắc Hướng Hoá, Đăk Rông), Thừa Thiên Huế (Phong Điền, Bạch Mã), Quảng Nam (Trà My, Nam Giang, Tây Giang), Bình Thuận (Tánh Linh), Kon Tum (Ngọc Linh), Gia Lai (Kon Ka Kinh), Đắk Lắk (Yok Đôn, Chư Yang Sin, Ea Sô), Đắk Nông (Tà Đùng), Lâm Đồng, Bình Phước (Bù Gia Mập), Bà Rịa-Vũng Tàu (Bình Châu-Phước Bửu) (Đặng Ngọc Cần và cs. 2008).
Phân bố ngoài nước: Bangladesh; Bhutan; Brunei Darussalam; Campuchia; Trung Quốc; Ấn Độ (Quần đảo Andaman); Indonesia (Kalimantan, Sumatra); Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Malaysia (Sabah, Bán đảo Malaysia, Sarawak); Myanmar; Nepal; Pakistan; Đài Loan, Tỉnh của Trung Quốc; Thái Lan
Giá trị: Paguma larvata là loài ăn tạp, đóng vai trò quan trọng trong phát tán hạt qua việc ăn trái cây, góp phần tái tạo rừng và duy trì đa dạng thực vật. Chúng cũng kiểm soát quần thể côn trùng và động vật nhỏ, giúp cân bằng hệ sinh thái. Ở một số khu vực, chúng bị săn bắt để lấy thịt hoặc làm thú cưng, dù hoạt động này đang giảm dần do các quy định bảo vệ Loài này là đối tượng nghiên cứu quan trọng trong sinh thái học, đặc biệt về khả năng thích nghi với các môi trường bị thay đổi bởi con người. Các nghiên cứu về hành vi, chế độ ăn, và di truyền giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các loài trong họ Viverridae. P. larvata cũng được nghiên cứu để hiểu vai trò của các loài ăn tạp trong phát tán hạt và tái tạo rừng.
Ảnh | Bộ mẫu | Số hiệu | Ngày lấy | Người lấy | Độ cao | Ghi chú |
---|
Nguồn: VnCreature