Cu li nhỏ - Xanthonycticebus pygmaeus (Nycticebus pymaeus)

Thông tin chi tiết:

Hình Thái: Giống như Cu li lớn Nycticebus bengalensis, nhưng nhỏ hơn và ở lưng màu vàng hơn. Xung quanh hai mắt có vòng tròn lông màu nâu sẫm. Có hai dải lông màu nâu sẫm chạy từ đỉnh đầu xuống trên hai mắt. Từ hai gốc tai có hai vệt rộng màu nâu đỏ chạy từ trên đỉnh đầu và nối với nhau. Lông mềm mại, màu hung nâu xen kẽ ít lông trắng bạc. Dọc sống mũi có vệt trắng. Dọc sống lưng không có sọc hoặc rất mờ, bụng trắng vàng ánh bạc. Răng hàm thứ hai lớn hơn răng hàm thứ nhất. Ngón chân thứ 2 có vuốt, các ngón chân khác có móng.

Sinh thái: Con cái trưởng thành sau 9 tháng, con đực sau 17 - 20 tháng. Thời gian mang thai kéo dài 188 ngày (Weisenseel, 1995). Mùa sinh sản vào tháng 10 đến tháng 12. Mỗi lứa đẻ 1 - 2 con. Tuổi thọ kéo dài 20 năm (Kappeler, 1991). Thức ăn là quả, nõn cây, côn trùng, trứng chim, chim non trong tổ và chúng thường ăn nhựa cây (Tan, 1994). Hoạt động kiếm ăn ban đêm. Thích leo trèo, chuyển động nhanh hơn loài Cu li lớn (Tan, 1994). Sống đơn độc hay thành nhóm nhỏ 3 - 4 con. Chúng sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau. Thích nghi với điều kiện rừng thưa, thoáng, trên các gốc cây, bụi rậm, ven rừng, trên nương rẫy.

Trạng thái bảo tồn: Các quần thể bị suy giảm nghiêm trọng và đã biến mất khỏi nhiều khu vực (Fitch-Snyder and Vu, 2002; Streicher, 2004). Năm 2002, tại Vườn Quốc gia Bến En, chỉ có 8 cá thể được ghi nhận trong 10 chuyến điều tra ban đêm bởi bốn nhóm, mỗi nhóm đi vài km mỗi đêm (Fitch-Snyder and Vu, 2002). Chỉ 01 cá thể được ghi nhận tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng (Nguyen Xuan Dang et al., 2012). Loài này cũng đã được ghi nhận với số lượng rất hạn chế (13 cá thể) ở Vườn quốc gia Cát Tiên và Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Vĩnh Cửu, Đồng Nai (Kenyon et al., 2014). Khu BTTN Bắc Hướng Hóa ghi nhận 1 cá thể (Thái Văn Thành và nnk, 2018); VQG Vũ Quang ghi nhận 5 cá thể và ước tính có khoảng 10 cá thể (Nguyễn Hải Hà và nnk, 2019); Khu BTTN Pù Hu ghi nhận 1 cá thể và ước tính có 2-3 cá thể (Nguyễn Hải Hà và nnk, 2020); Khu BTTN Xuân Liên ghi nhận 8 cá thể (thông tin bởi TS. Nguyễn Mạnh Hà, 2021). Đời sống hoạt động chủ yếu vào ban đêm đã dẫn đến rất ít thông tin về tình trạng và phân bố của loài được biết đến. Mặc dù tình trạng quần thể của loài chưa được biết rõ nhưng quan sát chung trong hầu hết các khu vực phân bố thì số lượng cá thể của loài đang bị suy giảm nghiêm trọng. Các hoạt động săn bắt của của người dân được ghi nhận diễn ra ở nhiều nơi, cùng với đó, nhiều khu vực phân bố bị chuyển đổi thành rừng trồng làm mất sinh cảnh sống.

Sách đỏ VN: EN

IUCN: EN

ND84: IB

Tại cúc phương:

Kinh độ/ VN2000 Vĩ độ/ VN2000
Thêm mới tại đây

Phân bố trong nước: Đà Nẵng (Sơn Trà, Nam Hải Vân), Quảng Nam (Sông Thanh, Nông Sơn), Quảng Ngãi, Kom Tum (Ngọc Linh, Chư Mon Ray, Kon Plông), Gia Lai (Kon Cha Rang, Kon Ka Kinh), Đắk Lắk (Yôk Đôn, Chư Yang Sin, Nam Ca, Ea Sô), Lâm Đồng (Bi Doup-Núi Bà), Bình Định, Ninh Thuận (Phước Bình), Bình Thuận (Tà Kou), Đồng Nai (Vĩnh Cửu, Cát Tiên), Tây Ninh (Lò Gò-Xa Mát), Bà Rịa - Vũng Tàu (Bình Châu-Phước Bửu).

Phân bố ngoài nước: Lào, Cam-Phu-Chia.

Giá trị: Nghiên cứu khoa học, sinh thái, thẩm mỹ. Loài thú Linh trưởng rất cần cho các nghiên cứu khoa học nhằm tìm hiểu tiến hóa của các loài Linh trưởng.

Ảnh Bộ mẫu Số hiệu Ngày lấy Người lấy Độ cao Ghi chú
Thêm mới tại đây

Nguồn: https://www.iucnredlist.org, http://vnredlist.vast.vn

0338.141.214 & 02293.848.006
vqgcucphuong@hn.vnn.vn
cc